Lịch sử Bỉ

Bài chi tiết: Lịch sử Bỉ

Tiền độc lập

Trước khi người La Mã (Roma) xâm chiếm khu vực vào năm 100 TCN, đây là nơi cư trú của người Belgae, pha trộn giữa các dân tộc CeltGerman.[18] Các bộ lạc Frank thuộc nhóm German dần di cư đến trong thế kỷ V, đưa khu vực vào phạm vi cai trị của các quốc vương Meroving. Thay đổi từng bước về quyền lực trong thế kỷ VIII khiến vương quốc của người Frank phát triển thành Đế quốc Caroling.[19]

Hiệp ước Verdun năm 843 phân chia khu vực giữa Trung FrankTây Frank, khu vực này trở thành một tập hợp các thái ấp có tính độc lập ít nhiều, và là chư hầu của Quốc vương Pháp hoặc của Hoàng đế La Mã Thần thánh.[19] Nhiều thái ấp trong số này thống nhất thành Nederlanden thuộc Bourgogne trong các thế kỷ XIV và XV.[20]Hoàng đế Karl V mở rộng liên minh cá nhân của Mười bảy tỉnh trong thập niên 1540, khiến nó vượt xa khỏi một liên minh cá nhân theo sắc lệnh năm 1549 và gia tăng ảnh hưởng của ông đối với Lãnh địa Thân vương-Giám mục Liège.[21]

Chiến tranh Tám mươi Năm (1568–1648) phân chia Các Vùng đất thấp thành Các tỉnh Liên hiệp (Belgica Foederata trong tiếng Latin, "Nederlanden Liên bang") và Miền Nam Nederlanden (Belgica Regia, "Nederlanden Hoàng gia"). Miền Nam Nederlanden nằm dưới quyền cai trị liên tiếp của gia tộc Habsburg Tây Ban NhaHabsburg Áo, bao gồm hầu hết lãnh thổ nay là Bỉ. Đây là chiến trường trong hầu hết chiến tranh Pháp-Tây Ban NhaPháp-Áo vào thế kỷ XVII-XVIII.

Sau các chiến dịch trong năm 1794 của Chiến tranh Cách mạng Pháp, Đệ Nhất Cộng hòa Pháp sáp nhập Các vùng đất thấp, kể cả các lãnh thổ chưa từng do gia tộc Habsburg cai trị trên danh nghĩa như Lãnh địa Thân vương-Giám mục Liège, kết thúc quyền cai trị của Áo trong khu vực. Các vùng đất thấp thống nhất thành Vương quốc Liên hiệp Hà Lan (Nederlanden) khi Đệ Nhất Đế chế Pháp giải thể vào năm 1815 sau thất bại của Napoléon Bonaparte.

Độc lập

Tranh miêu tả Cách mạng Bỉ 1830 của Gustaf Wappers

Năm 1830, Cách mạng Bỉ dẫn đến các tỉnh miền nam ly khai khỏi Hà Lan và hình thành quốc gia Bỉ độc lập theo Công giáo và nằm dưới quyền giai cấp tư sản, có ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp, và trung lập.[22][23]Leopold I đăng cơ làm quốc vương vào ngày 21 tháng 7 năm 1831, ngày này hiện là ngày quốc khánh Bỉ, kể từ đó Bỉ theo chế độ quân chủ lập hiến và dân chủ nghị viện, có hiến pháp thế tục dựa theo bộ luật Napoléon.[24] Quyền bầu cử vào lúc đầu bị hạn chế, song nam giới được cấp quyền phổ thông đầu phiếu sau tổng đình công năm 1893, còn với nữ giới là vào năm 1949.

Các chính đảng chủ yếu trong thế kỷ XIX là Đảng Công giáo và Đảng Tự do, còn Công đảng xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. Tiếng Pháp lúc đầu là ngôn ngữ chính thức duy nhất, ngôn ngữ này được giai cấp quý tộc và tư sản chấp thuận. Tuy nhiên, tiếng Pháp dần để mất tầm quan trọng về tổng thể từ khi tiếng Hà Lan cũng được công nhận. Sự công nhận này được chính thức hoá vào năm 1898 và đến năm 1967 thì Quốc hội chấp nhận một phiên bản tiếng Hà Lan của Hiến pháp.[25]

Hội nghị Berlin 1885 nhượng quyền kiểm soát Nhà nước Tự do Congo cho Quốc vương Leopold II với tư cách là tài sản cá nhân của ông. Từ khoảng năm 1900 quốc tế gia tăng quan tâm về đối xử khắc nghiệt và dã man đối với cư dân Congo dưới quyền Leopold II, đối với ông Congo chủ yếu là một nguồn thu nhập từ ngà voi và cao su.[26] Năm 1908, những phản đối này khiến nhà nước Bỉ đảm nhận trách nhiệm cai trị thuộc địa, từ đó lãnh thổ này được gọi là Congo thuộc Bỉ.[27]

Đức xâm chiếm Bỉ vào tháng 8 năm 1914, động thái này nằm trong Kế hoạch Schlieffen nhằm tấn công Pháp, và hầu hết giao tranh trên Mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra tại miền tây của Bỉ. Bỉ nắm quyền kiểm soát các thuộc địa Ruanda-Urundi của Đức (nay là RwandaBurundi) trong chiến tranh, và đến năm 1924 Hội Quốc Liên uỷ thác chúng cho Bỉ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Bỉ sáp nhập các huyện Eupen và Malmedy của Phổ vào năm 1925, đây là nguyên nhân xuất hiện một thiểu số nói tiếng Đức trong nước.

Người Đức lại xâm chiếm Bỉ vào tháng 5 năm 1940, và 40.690 người Bỉ bị giết trong cuộc chiếm đóng và nạn diệt chủng sau đó, hơn một nửa trong số đó là người Do Thái. Đồng Minh tiến hành giải phóng Bỉ từ tháng 9 năm 1944 đến tháng 2 năm 1945. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một cuộc tổng đình công buộc Quốc vương Leopold III phải thoái vị vào năm 1951, do nhiều người Bỉ cảm thấy ông đã cộng tác với Đức trong chiến tranh.[28] Congo thuộc Bỉ giành độc lập vào năm 1960 trong Khủng hoảng Congo;[29] Ruanda-Urundi tiếp bước độc lập hai năm sau đó. Bỉ gia nhập NATO với tư cách thành viên sáng lập, và thành lập nhóm Benelux cùng Hà Lan và Luxembourg.

Bỉ trở thành một trong sáu thành viên sáng lập của Cộng đồng Than Thép châu Âu vào năm 1951 và của Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu ÂuCộng đồng Kinh tế châu Âu thành lập năm 1957. Bỉ hiện là nơi đặt trụ sở các cơ quan hành chính và tổ chức chủ yếu của Liên minh châu Âu, như Ủy ban châu Âu, Hội đồng Liên minh châu Âu cùng các phiên họp đặc biệt và uỷ ban của Nghị viện châu Âu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bỉ http://www.abc.net.au/news/newsitems/200508/s14359... http://www.ulg.ac.be/cms/c_36320/photographies-fol... http://www.emploi.belgique.be/WorkArea/DownloadAss... http://www.Belgium.be/ http://www.belgium.be/en/about_belgium/country/bel... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/...